Túi khí (airbag) có tác dụng bảo vệ an toàn cho người ngồi trong xe, giảm được khả năng chấn thương do tai nạn giao thông. Tuy nhiên, nhiều người chưa thực sự hiểu sâu về nguyên lý hoạt động của hệ thống này và có tâm lý cứ trên xe có túi khí là yên tâm được đảm bảo an toàn.
Túi khí ra đời khi nào?
Túi khí là một túi tự động bơm đầy khí khi có tai nạn xảy ra nhằm giảm thiểu mức độ chấn thương của người ngồi trong xe. Túi khí (airbag) đã được nghiên cứu từ lâu và được sử dụng lần đầu tiên cho máy bay, trong giai đoạn Thế chiến II. Cho tới tận thập kỷ 1980, loại túi khí sản xuất hàng loạt trang bị cho xe ôtô mới bắt đầu xuất hiện. Năm 1998, Mỹ là một trong những nước đi tiên phong khi yêu cầu toàn bộ xe hơi đều phải có ít nhất hai túi khí dành cho lái xe và hành khách phía trước.
Xe hơi phải có ít nhất 2 túi khí phía trước
Cơ cấu túi khí
Túi khí có 3 phần chính, gồm: túi chứa khí, bộ cảm biến va chạm và hệ thống tạo khí. Tại thời điểm va chạm, bộ cảm biến có gắn máy đo gia tốc sẽ nhận biết mức độ tác động để kịp thời phản ứng, (hoặc không phản ứng), sau khi kích hoạt hệ thống bơm đầy khí nitrogen vào trong chiếc túi đang được gấp gọn gàng trong hộp chứa, túi khí căng phồng lập tức bung ra.
Túi khí có 3 phần chính, gồm: túi chứa khí, bộ cảm biến va chạm và hệ thống tạo khí
Sau khoảng 7 giây, khí này sẽ từ từ thoát ra theo các lỗ rất nhỏ, túi khí xẹp xuống, người lái có thể thoát ra ngoài mà không bị mắc kẹt trong xe.
Nguyên lý hoạt động
Bộ điều khiển điện tử sẽ nhận tín hiệu từ các cảm biến để xác định gia tốc giảm dần của xe. Khi bộ điều khiển nhận được tín hiệu gia tốc giảm dần đủ lớn, sẽ cung cấp dòng điện kích nổ túi khí ngay. Tốc độ nổ túi khí là rất nhanh (khoảng từ 10 đến 40 phần nghìn giây) nên sẽ tạo ra một túi đệm khí tránh cho phần đầu và ngực cửa hành khách va đập trực tiếp vào các phần cứng của xe. Rồi sau đó tự xì nhanh chóng để không làm kẹt hành khách trong xe.
Túi khi được kích nổ phụ thuộc vào 2 yếu tố cơ bản: Lực va đập; vùng và hướng va đập
Túi khi được kích nổ phụ thuộc vào 2 yếu tố cơ bản: Lực va đập của xe (gây nên gia tốc giảm dần của xe); Vùng và hướng va đập (điểm và hướng va chạm xuất phát đầu tiên). Bởi vậy, ta không nên ngộ nhận rằng khi xe đã trang bị túi khí đều sẽ giúp tránh được thương vong trong bất cứ tai nạn ôtô nào.
Trên hầu các hãng xe, túi khí sẽ được kích nổ khi gia tốc giảm dần tối thiểu là 2 G (G: gia tốc trọng trường) hoặc lực va đập tối thiểu tương đương với trường hợp xe đạt tốc độ khoảng 25 Km/h va chạm trực diện vào bức tường bê tông cố định.
Không nên ngộ nhận rằng khi xe đã trang bị túi khí sẽ giúp tránh được thương vong trong bất cứ tai nạn ôtô nào
Ví dụ: Khi phanh là giảm tốc (gia tốc giảm dần). Giả sử, khi xe chạy ở tốc độ 120 km/giờ đạp phanh gấp cho xe dừng hẳn thì độ giảm tốc tối đa là 1,5 G như vậy độ giảm tốc 2 G để bung túi khí phải lớn hơn gia tốc giảm dần khi phanh gấp rất nhiều.
Do đó, trong một số trường hợp, sau khi bị tai nạn, vẻ ngoài xe trông bị hư hỏng rất nhiều nhưng túi khí không nổ vì gia tốc giảm dần của xe chưa đạt giới hạn cho phép để kích nổ túi khí. Với những trường hợp này, hệ thống dây đai an toàn đã đủ để giữ hành khách tránh khỏi những chấn thương nghiêm trọng.
Vì vậy, trong tất cả các hướng dẫn sử dụng của tất cả các hãng sản xuất xe đều yêu cầu hành khách luôn đeo dây đai an toàn khi ngồi trên xe. Đây cũng là luật lệ bắt buộc của nhiều nước trên thế giới trong đó có Việt Nam.
Đeo dây an toàn sẽ phát huy tối ưu tác dụng của túi khí
Điều đó có có nghĩa là không phải xe được trang túi khí thì có nghĩa là sẽ bung khi xảy ra va chạm. Có một số điều kiện sẽ hạn chế bung túi khí một số trường hợp sẽ không bung túi khí.
Cuối cùng, bạn nên biết rằng túi khí là một thiết bị an toàn thụ động. Túi khí không phải sẽ bung trong mọi trường hợp nguy hiểm và cứ bung túi khí là bạn sẽ được an toàn. Cách an toàn nhất là bạn nên nâng cao kỹ năng lái xe và xử lý tình huống, không lái xe trong tình trạng say xỉn, chấp hành luật lệ khi tham gia giao thông...
Theo Autodaily